Tài sản trí tuệ là chìa khóa phát triển đổi mới sáng tạo


Sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội bởi chính những giá trị mà tài sản trí tuệ mang lại.

Ông Võ Hưng Sơn – Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu Trí tuệ - Sở KHCN TP.HCM

Ông Võ Hưng Sơn – Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu Trí tuệ - Sở KHCN TP.HCM

Ngày 20/62019, tại TP.HCM, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) thuộc Bộ KH&CN đã phối hợp Sở KH&CN TP.HCM đã tổ chức buổi tập huấn "Thẩm định giá tài sản trí tuệ hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học".

Đây là hoạt động giúp các cơ quan quản lý SHTT trên địa bàn TP.HCM cùng nhau thảo luận, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, thách thức và giải pháp để thúc đẩy hoạt động trong lĩnh vực này trong thời gian tới.

Tài sản trí tuệ (TSTT) được hiểu là tất cả các sản phẩm của hoạt động trí tuệ: các ý tưởng, các tác phẩm sáng tạo văn học/nghệ thuật, các công trình khoa học, các sángchế,…phần mềm máy tính…TSTT là một dạng tài sản vô hình. Ngoài các đặc tính chung như các dạng tài sản vô hình khác, các TSTT lại có các đặc tính riêng, đó là tính sáng tạo và đổi mới (là một đối tượng mới được tạo ra hoặc là một đối tượng đã có nhưng được bổ sung cái mới).

Ngoài ra, các TSTT thuộc sản phẩm sáng tạo khoa học kỹ thuật là các đối tượng có bản chất khoa học/kỹ thuật, gồm: các thông tin – bí quyết kỹ thuật (know-how), các sáng chế, các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, các bản vẽ, bản thiết kế, công thức, dữ liệu tính toán, dữ liệu thử nghiệm, phần mềm máy tính, cơ sở dữ liệu, công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, đồ án quy hoạch, sơ đồ bố trí/sắp xếp; giống cây trồng… 

Có rất nhiều đề tài, dự án khoa học và công nghệ (KH&CN) đã và đang triển khai thực hiện, nhưng những vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu lại chưa được quan tâm một cách đúng mức, chưa thể hiện được hết giá trị của những TSTT. Việc thẩm định giá TSTT hình thành từ kết quả nghiên cứu KH&CN là trách nhiệm của Cơ quan quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ có thẩm quyền.

Chia sẻ tại buổi tập huấn, ông Võ Hưng  Sơn – Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu Trí tuệ - Sở KHCN TP.HCM cho biết, tổ chức được giao quyền sẽ tiến hành định kết quả nghiên cứu KH&CN, TSTT để xác định lợi nhuận tạo ra từ việc sử dụng những kết quả và TSTT đó. Việc định giá này còn được thực hiện khi chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, TSTT.

Đề cập đến vấn đề thẩm định giá TSTT, ông Nguyễn Hữu Cẩn – Viện phó Viện Khoa học sở hữu trí tuệ lưu ý rằng TSTT là yếu tố quyết định lựa chọn  “sự đặc biệt” của sản phẩm và dịch vụ bởi người tiêu dùng. 

Ông Nguyễn Hữu Cẩn – Viện phó Viện Khoa học sở hữu trí tuệ

Ông Nguyễn Hữu Cẩn – Viện phó Viện Khoa học sở hữu trí tuệ

Ông cũng nhấn mạnh rằng, giá trị sử dụng của TSTT chỉ thể hiện khi chúng được “tiêu dùng”, thông qua trao đổi, biểu hiện bằng giá cả. Giá trị TSTT còn được thể hiện bằng tổng lợi ích mà xã hội sẵn sàng trả cho “sự khác biệt” có trong mỗi đơn vị sản phẩm/dịch vụ.

Cũng theo ông Cẩn, do những yếu tố đặc thù của mình nên việc thẩm định giá trị TSTT từ đề tài nghiên cứu KH&CN gặp khá nhiều khó khăn. Đối với những người làm nghiên cứu khoa học thì những vấn đề về thủ tục, pháp lý cũng như mô tả sáng chế chiếm rất nhiều thời gian mà không phải ai cũng có đủ điều kiện để thực hiện. Do đó cần hỗ trợ cho nhà khoa học chuyển thành nhà công nghệ, biết làm và khai thác sáng chế tuy nhiên nhiệm vụ này cũng đòi hỏi ngoài am hiểu về sở hữu trí tuệ thì cần trang bị nhiều kiến thức trong kế toán để xác định giá trị của TSTT.

Định giá tài sản tài sản trí tuệ của doanh nghiệp được thực hiện bằng ba phương pháp cơ bản: Phương pháp chi phí; Phương pháp thị trường và Phương pháp thu nhập.

Trong đó, cách tiếp cận từ thị trường sẽ xác định giá trị của TSTT căn cứ vào việc so sánh, phân tích thông tin của các TSTT tương tự có giá giao dịch trên thị trường.

Cách tiếp cận từ chi phí căn cứ vào chi phí tái tạo ra TSTT giống nguyên mẫu với tài sản cần thẩm định giá hoặc chi phí thay thế, để tạo ra một TSTT tương tự có cùng chức năng, công dụng theo giá thị trường hiện hành.

Còn riêng với cách tiếp cận từ thu nhập sẽ tiến hành xác định giá trị của TSTT thông qua giá trị hiện tại của các khoản thu nhập, các dòng tiền và các chi phí tiết kiệm do TSTT mang lại. Theo phương pháp này, giá trị TSTT là giá trị hiện tại của dòng thu nhập có được từ TSTT trong tương lai với tỷ lệ chiết khấu thích hợp.

Theo Thạch An - Khám phá

Bài gốc

Xem thêm